QUO VADIS

Không khí Giáng sinh

Đọc cuốn Những câu chuyện được yêu thích nhất trong Kinh Thánh, đang phân vân xem có nên giới thiệu rộng rãi không, vì ít nhiều cũng có những quan điểm mang tính tôn giáo trong đó, bỗng dưng lại được giới thiệu cuốn sách QUO VADIS này.

Về đâu? Cuốn sách viết về thời mà Thiên chúa giáo đang nảy mầm và bị coi là dị giáo, thời trị vị của Neros, La mã cổ đại.

Mạnh dạn giới thiệu cả hai cuốn để bạn đọc thấy cái nhìn đa chiều về một sự vật, sự việc. Cuốn KINH THÁNH dành cho trẻ nhỏ, chứa đựng 40 câu chuyện đầy yêu thương trong Kinh thánh được kể lại ngắn gọn và minh họa giàu cảm xúc, ngoại trừ những quan điểm khoa học về loài ngưòi, bóng tối và ánh sáng. Thiết nghĩ, dù theo đạo hay không thì cũng nên biết những câu chuyện kinh điển có sức sống hàng ngàn năm này để trẻ dễ hòa chung vào không khí toàn cầu hiện đại, và tất nhiên, việc đúng sai hay ti ở mức độ nào thì phải tùy vào cách tiếp cận và ý chí của mỗi người.

Dưới đây, xin trích lược giới thiệu về tác giả và tác phẩm QUO VADIS. Một tác phẩm xứng dành thời gian để nghiền ngẫm.
——————–
NOBEL 1905

QUO VADIS

Henryk Sienkievich là một trong những văn hào lớn nhất của nhân dân Ba Lan. Sáng tác của ông có một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn hóa Ba Lan, đồng thời được đánh giá rất cao trên văn đàn thế giới. Với tiểu thuyết Quo vadis, ông được tặng giải Nobel về văn học năm 1905.

Với những giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời, Quo vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Tác phẩm đã gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học nghệ thuật thế giới. Quo vadis nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Cho đến nay, Quo vadis đã được dịch ra trên bốn mươi thứ tiếng khác nhau. Tác phẩm cũng rất nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh ngay từ những năm xa xưa nhất, đồng thời nó cũng trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu, không những chỉ ở Ba Lan mà trên phạm vi thế giới.

Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng nổi tiếng với các tác phẩm dịch từ nguyên tác tiếng Ba Lan như Hania, trên sa mạc và trong rừng thẳm (cùng tác giả) Thầy lang, Con hủi, Đường công danh của Nikôđem Đyzơma…
***
Henryk Adam Aleksander Pius Sienkiewicz là nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Ông thường ký dưới các tác phẩm của mình bằng bút hiệu Litwos.

Ông là con trai một địa chủ quý tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về Warszawa. Học xong trường gymnazy năm 1870, ông vào học Đại học Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Sienkiewicz là cộng tác viên thường xuyên của các báo Przegląd Tygodniowy, Gazeta Polska, Niwa, Słowo và bắt đầu gây được sự chú ý với tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện ngắn Stary sluga (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng. Năm 1876, tờ Gazeta Polska cấp tiền cho Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa Kỳ; ở đây ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại xã hội chủ nghĩa không thành ở Anahaim (gần Los Angeles). Từ 1878 ông trở về châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết.

Năm 1879, Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan; ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con nhưng chết sớm. Sau khi về Ba Lan, Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy), Pan Wolodyjowski (Ngài Wolodyjowski), Ogniem i mieczem (Bằng lửa và gươm) – viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ 17 trong thời gian chiến tranh giữa người Ba Lan với người Kazakh, với người Thụy Điển và với người Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về cuộc sống hiện đại là Bez dogmatu (Không có giáo điều) và Rodzina Polaniekich (Gia đình Polaniecki), còn vào những năm 1895-1896 – tiểu thuyết Quo vadis nói về cuộc sống dưới triều đại của hoàng đế Nero thời cổ La Mã đã mang lại danh tiếng thế giới cho ông.

Năm 1900, Henryk Sienkiewicz được những người hâm mộ quyên tiền đủ để mua một trang trại nhỏ và tổ chức sinh nhật rầm rộ.

Năm 1905 ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sử thi, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo vadis viết về cuộc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với Nero.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ.

THÙY DƯƠNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.